tôi bơ vơ hoài trở về
Tôi và Tiết Phong đã đặt hết hy vọng vào Hạ Lẫm. Khi Tiết Phong gọi tôi rời đi, tôi bơ phờ dựa vào bức tường hình mạng nhện, có chút ngoài ý muốn, đôi mắt không ngừng nhỏ giọt ở bụi cây bên ngoài bức tường. anh ta ngẩng đầu lên và làm những cử chỉ hoài
Và tôi không hề muốn trở lại. Khi tôi nhìn vào "cơ chế" của tình bạn giữa chúng tôi, giữa những người bạn tôi tưởng rằng thân thiết nhất, tôi hiểu rằng mình đã từng sống trong ảo tưởng nhiều đến thế nào. Việc chúng tôi xa nhau là lẽ tự nhiên thôi.
+ Tôi đã bị ngất và được đưa vào viện. + Tôi được biết, cô bé Giôn- xi đã sống lại. + Tôi nghĩ mình đã làm nên kì tích. + Chiếc lá cuối cùng chính là kiệt tác của cuộc đời tôi. c. Kết bài: - Tôi chuẩn bị tâm lí để ra đi. - Lời nhắn nhủ cho hai cô bé đáng
Vay Tiền Online Từ 18 Tuổi Bankso Vn. Những bài văn mẫu hay lớp 11Một thời đại trong thi ca vừa được tổng hợp và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Mời bạn đọc cùng theo dõi bài viết dưới đây thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca lớp 11I. Dàn ý phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi caDàn ý phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 1Dàn ý phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 2II. Văn mẫu Phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi caPhân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 1Phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 2Phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 3I. Dàn ý phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi caDàn ý phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 11. Mở bàiDẫn dắt và giới thiệu vấn đề nghị luận."Một thời đại trong thi ca" là bài tiểu luận mở đầu cuốn sách "thi nhân Việt Nam" của Hoài Thanh xuất bản năm 1942. Qua công trình nghiên cứu phê bình công phu này với cách nhìn khoa học, tiến bộ; cách viết tinh tế, tài hoa; cách lập luận sắc sảo; tác giả đã giúp người đọc hiểu được tinh thần của thơ Thân bàiTheo Hoài Thanh, tinh thần Thơ mới nằm trong một chữ "tôi". "Cái tôi" của Thơ mới đối lập với "cái ta" của thơ cũ- cả mặt tích cực và mặt bi kịch của "Cái tôi" trong Thơ mới"Cái tôi" là bản ngã của mỗi con người mà ai cũng có. Nhưng trong những thời kì lịch sử nhất định, do hệ tư tưởng chính thống của thời đại khống chế, éo buộc nên cái bản ngã ấy không được bộc lộ, nhà thơ phải nói lên tiếng nói của "cái ta- đạo lí" chung của thời đại ấy. Đó là thơ phi "cái tôi" ấy được giải phóng thì thi nhân mới có thể nói lên những điều thành thực tự đáy lòng mình. "Cái tôi"- đó chính là "khát vọng được thành thực" như Hoài Thanh đã nói, là sự tự khẳng định bản ngã của nhà thơ trước cuộc đời, là sự tự ý thức về cá nhân mình trong cuộc sống xã đây, cái tôi có được "cái sức mạnh súc tích từ mấy ngàn năm nhất đán tung bờ vỡ đê" và khi được giải phóng thì nó sẽ "làm giàu cho thi ca" bằng những cảm xúc mới mẻ và những cách tân nghệ Mặt tích cực của "cái tôi" trong Thơ mớiNếu xã hội Việt Nam từ xưa không có các nhân. Chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình thì cái tôi Thơ mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó bỡ ngỡ, như lạc loài nơi đất thơ cũ mang cái bản sắc cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả thì cái tôi Thơ mới mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này Quan niệm cá nhân sự ý thức về bản thân.Nếu các nhà văn, nhà thơ cũ không một lần nào dám dùng chữ "tôi" để nói chuyện với mình hay với tất cả mọi người, không tự xưng, ẩn mình sau chữ ta, một chữ có thể chỉ chung nhiều người thì cái tôi, vố cái nghĩa tuyệt đối của nó, làm nhiều người khó chịu nhưng ngày càng mất dần cái vẻ bỡ ngỡ và được vô số người Mặt bi kịch của "cái tôi" trong Thơ mới"Cái tôi" của các nhà Thơ mới thật đáng thương và tội nghiệp vì nó đã đem đến cho tâm hồn hộ nỗi buồn lạnh và bơ vơ, muốn thoát đi đâu cũng không được. Bởi họ là những thi nhân mất nước, đang sống trong cuộc đời mỏi mòn, tù túng lúc bấy giờ, lại mang trong mình "cái tôi" cô đơn, bé nhỏ của các thi sĩ lãng kịch ấy được làm nổi bật bằng sự tương phản, đối laoaj giữa con đường muốn thoát thân với sự thực hiẹn hữu của cuộc đời các nhà Thơ mới lúc bấy giờ thoát lên tiên > Tác giả đã chỉ ra nội dung và tinh thần thơ mới. Tác giả phát hiện ra cốt lõi của thơ mới là chữ tôi và đánh giá cái tôi một cách sâu sắc, hài hoà. "Tất cả cái bi kịch đang diễn ngấm ngầm, dưới những phù hiệu dễ dãi, trong hồn người thanh niên". Các nhà thơ mới đã mất niềm Cách giải quyết bi kịch của các nhà thơ mớiCác nhà thơ mới tìm lại niềm tin bằng cách gửi vào tình yêu tiếng Việt. "Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt Tiếng Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng"."Chưa bao giờ như bây giờ, họ cảm thấy tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa chí biến thiên chứ không sao tiêu diệt"."Chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai".III. KẾT THÚC VẤN ĐỀVới nghệ thuật lập luận khoa học, chặt chẽ, thấu đáo và một văn phong tài hoa, tinh tế, giàu cảm xúc, Một thời đại trong thi ca đã nêu rõ nội dung cốt yếu của "tinh thần thơ mới" là chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó. Chữ tôi gắn liền với cá nhân, với cái riêng cá thể khác với chữ ta gắn liền với tổng thể, cộng đồng, xã giả phát hiện và chỉ rõ cách giải quyết bi kịch của các nhà thơ mới. Họ tìm lại lòng tin bằng cách gửi tâm hồn mình vào lòng yêu tiếng Việt, vào tình yêu quẻ hương, đất lập luận của bài viết luôn có sức thuyết phục cao vì nó gắn bó chặt chẽ giữa những nhận định, những luận điểm có tính khái quát với những ví dụ có tính minh chứng cụ thể, đa dạng, giàu tính thuyết Văn mẫu Phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi caPhân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 1Tinh thần thơ mới theo Hoài Thanh biểu hiện rõ nhất ở chữ tôi. Trong thơ cũ là chữ ta, còn trong thơ mới là chữ tôi. Tuy có chỗ giống nhau nhưng vẫn có chỗ khác nhau, đó là điều chúng ta hãy cần tìm thần thơ mới là một nội dung nổi bật được Hoài Thanh nói lên thật sâu sắc trong phần cuối bài tiểu luận "Một thời đại trong thi ca".Sau khi chỉ ra hình dáng câu thơ, nhạc điệu câu thơ, sự mềm mại, chỗ ngắt hơi, phép dùng chữ, phép đặt câu,... của thơ mới, ông nói rõ tinh thần thơ mới là điều quan trọng hơn ta hãy đi tìm. Ông đưa ra một tiêu chí là "phải sánh bài hay với bài hay"; ông chỉ ra sự kế thừa của sự vật là "Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ". Vì các thời đại vẫn nối tiếp theo dòng chảy thời gian nên “muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể".Tinh thần thơ mới theo Hoài Thanh biểu hiện rõ nhất ở chữ tôi. Trong thơ cũ là chữ ta, còn trong thơ mới là chữ tôi. Tuy có chỗ giống nhau nhưng vẫn có chỗ khác nhau, đó là điều chúng ta hãy cần tìm tôi là bản ngã của mỗi con người mà ai cũng có, là sự tự ý thức về mình. Nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy Quan niệm cá nhân. Lúc đầu chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam "thực bỡ ngỡ", như một kẻ "lạc loài nơi đất khách". "Chữ tôi vài cái nghĩa tuyệt đối của nó" lúc đầu xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó đến một mình, "bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu". Ngày một ngày hai, “mất dần vẻ bở ngỡ rồi được "vô số người quen", cảm thấy "nó đáng thương", "nó tội nghiệp quá!".Bài "Tình già" của Phan Khôi, bài "Trên đường đời", "Vắng khách thơ" sau đổi thành "Xuân về" của Lưu Trọng Lư là ba bài thơ mới được giới thiệu trên báo Phụ nữ tân văn vào năm 1932. Sáu năm sau, 1938, tập "Thơ thơ" của Xuân Diệu ra đời. Ta có thế giới thiệu hai đoạn thơ làm ví dụ để thấy được "hình dáng câu thơ", thấy được cái tôi từ chỗ "bỡ ngỡ" lúc đầu rồi về sau được "vô số người quen" như thế nào?Năm vừa rồiChàng cùng tôiNơi vùng giáp MộTrong gian nhà cổTôi quay tơ,Chàng ngâm sau oanh giục giã,Nhìn ra hoa đua nở,Dừng tay tôi kêu chàng"Này, này! bạn! xuân sang"Chàng nhìn xuân mặt hớn hởTôi nhìn chàng lòng vồn vã“Xuân về' - Lưu Trọng LưVà đây là bốn câu thơ trích trong bài "Vội vàng” của Xuân Diệu Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa;Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân...Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân "chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả". Những bậc kì tài như Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Tú Xương, "thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ", thẳng hoặc trong thơ văn họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác" 1. Trong thợ cũ thường chỉ có chữ ta, các thi sĩ "ẩn mình sau chữ ta một chữ có thể chí chung nhiều người".Rượu đến cội cây ta sẽ uống,Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.Nguyễn Bỉnh KhiêmDừng chân đứng lại trời non nước,Một mảnh tình riêng ta với ta.Bà Huyện Thanh QuanGặp ta nay, xuân chớ lạ lùngTóc có khác nhưng lòng chẳng khácKế từ thuở biết xuân bốn mươi chín năm về trướcVẫn rượu thơ non nước thú làm vuiĐến xuân này ta tuổi đã năm mươiTính trăm tuổi đời người, ta mới nửaRồi sau lại bao nhiêu xuân nữaMặc trời cho ta chửa hỏi chiSẵn rượu đào xuân uống với ta đi...Gặp xuân- Tản ĐàCái tôi của thơ mời là cái tôi đầy bi kịch. Cũng muốn nói đến cái khổ sở, thảm hại trước "nỗi đời cay cực” của các nhà thi nhân. Cũng nói đến chuyện lên tiên được sống trong giấc mơ tiên "Tiếng sáo Thiên Thai" – Thế Lữ. Cũng nói đến say, đến cô đơn "Say đi em", "Phương xa" - Vũ Hoàng Chương. Hoặc phiêu lưu trong trường tìnhThuyền yêu không ghé bến sầuNhớ đêm thiếu phụ bên lầu không trăngMột mùa đông - Lưu Trọng LưHoặc điện cuồng, hoặc đắm say, hoặc bơ vơ, hoặc ngơ ngẩn buồnHãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh,Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránhNhững ưu phiền, đau khổ với buồn lo".Chế Lan ViênChiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao,Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó.Huy CậnTrăng sáng, trăng xa, trông rộng quá!Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơXuân DiệuCái tôi làm cho nền hồn thơ giàu bản sắc của thơ mới, đồng thời cũng chứa đầy bi kịch của thơ mới. Cách phân tích của Hoài Thanh vừa khái quát vừa cụ thể, rất tinh tế và tài hoa. Cách dùng từ chính xác, cách dùng điệp từ, dùng tương phản để tạo giọng điệu và cảm xúc, đọc lên nghe rất lí thú"Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Những động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận".Phải nắm được cái hồn của thơ mới, và phải rất tài hoa mới viết đúng và viết hay như vậy. Hoài Thanh như dẫn hồn độc giả nhập vào hồn của thơ mới"Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước".Một điểm nổi bật nữa của thơ mới là đã góp phần hiện đại hoá tiếng Việt. Câu thơ co, duỗi tự nhiên. Lời thơ giản dị, dễ hiểu, giàu cảm xúc và hình ảnh. Các nhà thơ mới đã gửi gắm tấm lòng trân trọng và yêu quý tiếng Việt. Hoài Thanh đã dùng hình ảnh "tấm lụa" và "tấm hồn bạch" để nói lên tình cảm đẹp đẽ đó"Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng".Đoạn cuối của bài tiểu luận "Một thời đại thi ca", Hoài Thanh đã trân trọng, quý trọng bày tỏ niềm hi vọng đối với thơ mới và các nhà thơ mới "trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng". Thơ mới cũng như các nhà thơ mới kế thừa và phát huy truyền thống tinh thần nòi giống, sẽ kế thừa những tinh hoa của thơ cũ, nền thơ cổ điển Việt Nam, “tìm về dĩ vãng để vin về những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai”.Điệp ngữ "Chưa bao giờ như bây giờ...’! cất lên ba lần làm cho giọng văn vang lên tha thiết, ân năm 1943, 1944, thơ mới như bị "chững lại". Nhưng rồi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, kháng chiến chống Pháp diễn ra ác liệt đã thổi lửa cho thơ mới và thế hệ những nhà thơ mới. Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ,... đã trở thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, đã góp phần xứng đáng xây dựng và phát triển nền thơ ca Việt Nam hiện thập niên sau, đọc "Thi nhân Việt Nam" của Hoài Thanh, ta hiểu thêm thơ mới, ta yêu thêm lớp thi sĩ tiền chiến của "một thời đại thi cu".Phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 2Tinh thần thơ mới là một nội dung nổi bật được Hoài Thanh nói lên thật sâu sắc trong phần cuối bài tiểu luận "Một thời đại trong thi ca".Sau khi chỉ ra hình dáng câu thơ, nhạc điệu câu thơ, sự mềm mại, chỗ ngắt hơi, phép dùng chữ, phép đặt câu,... của thơ mới, ông nói rõ tinh thần thơ mới là điều quan trọng hơn ta hãy đi tìm. Ông đưa ra một tiêu chí là "phải sánh bài hay với bài hay"; ông chỉ ra sự kế thừa của sự vật là "Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ". Vì các thời đại vẫn nối tiếp theo dòng chảy thời gian nên "muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể".Tinh thần thơ mới theo Hoài Thanh biểu hiện rõ nhất ở chữ tôi. Trong thơ cũ là chữ ta, còn trong thơ mới là chữ tôi. Tuy có chỗ giống nhau nhưng vẫn có chỗ khác nhau, đó là điều chúng ta hãy cần tìm tôi là bản ngã của mỗi con người mà ai cũng có, là sự tự ý thức về mình. Nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy quan niệm cá nhân. Lúc đầu chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam "thực bỡ ngỡ", như một kẻ "lạc loài nơi đất khách". "Chữ tôi vài cái nghĩa tuyệt đối của nó" lúc đầu xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó đến một mình, "bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu". Ngày một ngày hai, "mất dần vẻ bở ngỡ rồi được "vô số người quen", cảm thấy "nó đáng thương", "nó tội nghiệp quá!".Bài "Tình già" của Phan Khôi, bài "Trên đường đời", "Vắng khách thơ" sau đổi thành "Xuân về" của Lưu Trọng Lư là ba bài thơ mới được giới thiệu trên báo Phụ nữ tân văn vào năm 1932. Sáu năm sau, 1938, tập "Thơ thơ" của Xuân Diệu ra đời. Ta có thế giớỉ thiệu hai đoạn thơ làm ví dụ để thấy được "hình dáng câu thơ", thấy được cái tôi từ chỗ "bỡ ngỡ" lúc đầu rồi về sau được "vô số người quen" như thế nào?Năm vừa rồiChàng cùng tôiNơi vùng giáp MộTrong gian nhà cổTôi quay tơ,Chàng ngâm sau oanh giục gĩa,Nhìn ra hoa đua nở,Dừng tay tôi kêu chàng"Này, này! bạn! xuân sang"Chàng nhìn xuân mặt hớn hởTôi nhìn chàng lòng vồn vã"Xuân về' – Lưu Trọng LưVà đây là bốn câu thơ trích trong bài "Vội vàng" của Xuân Diệu Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa;Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa;Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân...Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân "chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả". Những bậc kì tài như Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Tú Xương,..., "thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ", thẳng hoặc trong thơ văn họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác" 1. Trong thợ cũ thường chỉ có chữ ta, các thi sĩ "ẩn mình sau chữ ta một chữ có thể chí chung nhiều người".Rượu đến cội cây ta sẽ uống,Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.Nguyễn Bỉnh KhiêmDừng chân đứng lại trời non nước,Một mảnh tình riêng ta với ta.Bà Huyện Thanh QuanGặp ta nay, xuân chớ lạ lùngTóc có khác nhưng lòng chẳng khácKế từ thuở biết xuân bốn mươi chín năm về trướcVẫn rượu thơ non nước thú làm vuiĐến xuân này ta tuổi đã năm mươiTính trăm tuổi đời người, ta mới nửaRồi sau lại bao nhiêu xuân nữaMặc trời cho ta chửa hỏi chiSẵn rượu đào xuân uống với ta đi...Gặp xuân - Tản ĐàCái tôi của thơ mời là cái tôi đầy bi kịch. Cũng muốn nói đến cái khổ sở, thảm hại trước "nỗi đời cay cực" của các nhà thi nhân. Cũng nói đến chuyện lên tiên được sống trong giấc mơ tiên "Tiếng sáo Thiên Thai" - Thế Lữ. Cũng nói đến say, đến cô đơn "Say đi em", "Phương xa",... - Vũ Hoàng Chương. Hoặc phiêu lưu trong trường tìnhThuyền yêu không ghé bến sầuNhớ đêm thiếu phụ bên lầu không trăngMột mùa đông – Lưu Trọng LưHoặc điên cuồng, hoặc đắm say, hoặc bơ vơ, hoặc ngơ ngẩn buồnHãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh,Một vì sao trơ trọi cuối trời xa!Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránhNhững ưu phiền, đau khổ với buồn Lan ViênChiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao,Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm CậnTrăng sáng, trăng xa, trông rộng quá!Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơXuân DiệuCái tôi làm cho nền hồn thơ giàu bản sắc của thơ mới, đồng thời cũng chứa đầy bi kịch của thơ mới. Cách phân tích của Hoài Thanh vừa khái quát vừa cụ thể, rất tinh tế và tài hoa. Cách dùng từ chính xác, cách dùng điệp từ, dùng tương phản để tạo giọng điệu và cảm xúc, đọc lên nghe rất lí thú"Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Những động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận".Phải nắm được cái hồn của thơ mới, và phải rất tài hoa mới viết đúng và viết hay như vậy. Hoài Thanh như dẫn hồn độc giả nhập vào hồn của thơ mới"Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước".Một điểm nổi bật nữa của thơ mới là đã góp phần hiện đại hoá tiếng Việt. Câu thơ co, duỗi tự nhiên. Lời thơ giản dị, dễ hiểu, giàu cảm xúc và hình ảnh. Các nhà thơ mới đã gửi gắm tấm lòng trân trọng và yêu quý tiếng Việt. Hoài Thanh đã dùng hình ảnh "tấm lụa" và "tấm hồn bạch" để nói lên tình cảm đẹp đẽ đó"Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửỉ nỗi băn khoăn riêng".Đoạn cuối của bài tiểu luận "Một thời đại thi ca", Hoài Thanh đã trân trọng, quý trọng bày tỏ niềm hi vọng đối với thơ mới và các nhà thơ mới "trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng". Thơ mới cũng như các nhà thơ mới kế thừa và phát huy truyền thống tinh thần nòi giống, sẽ kế thừa những tinh hoa của thơ cũ, nền thơ cổ điển Việt Nam, "tìm về dĩ vãng để vin về những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai".Điệp ngữ "Chưa bao giờ như bây giờ..."! cất lên ba lần làm cho giọng văn vang lên tha thiết, ân năm 1943, 1944, thơ mới như bị "chững lại". Nhưng rồi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, kháng chiến chống Pháp diễn ra ác liệt đã thổi lửa cho thơ mới và thế hệ những nhà thơ mới. Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ,... đã trở thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, đã góp phần xứng đáng xây dựng và phát triển nền thơ ca Việt Nam hiện thập niên sau, đọc "Thi nhân Việt Nam" của Hoài Thanh, ta hiểu thêm thơ mới, ta yêu thêm lớp thi sĩ tiền chiến của "một thời đại thi ca".Phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca mẫu 3Hoài Thanh là một trong những cây bút phê bình văn học xuất sắc của văn học Việt Nam “Hoài Thanh sinh ra dường như là để đọc thơ, bình thơ”. Ông tự nhận lối phê bình của mình là “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Trong đó, cuốn “thi nhân Việt Nam” là bản tổng kết nổi bật cho thời kì thơ Mới sau 10 năm, trong đó đoạn trích “một thời đại trong thi ca” rất tiêu biểu cho phong các phê bình tinh tế, nhẹ nhàng và tài hoa của ông. Đặc biệt, đoạn trích thể hiện rất rõ tinh thần thơ Mới đó là chữ tôi với ý nghĩa tuyệt đối nhất của giới thiệu tinh thần thơ Mới của Hoài Thanh rất trực tiếp , rõ ràng là chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối nhất của nó. Tại sao lại là tuyệt đối, bởi trong thơ ca trung đại không phải cái tôi chưa xuất hiện, mà ở đó cũng đã nở rộ những cá tính thơ sắc mạnh, độc đáo như Hồ Xuân Hương, Tản Đà, Nguyễn Công Trứ...Nhưng điểm khác biệt giữa cái tôi cá nhân của thơ mới và thơ cũ là gì. Nếu như trong thơ cũ, không có cái tôi cá nhân chỉ có toàn thể thì trong thơ Mới cái tôi được đặc biệt đề cao gắn liền với ý thức và khát vọng giải phóng cái tôi cá nhân, bày tỏ chân thực cảm xúc và mong muốn của mình. Cái tôi cá nhân trong thơ xưa nếu có không tự xung hoặc ẩn đi còn cái tôi thơ Mới đi một mình với nghĩa tuyệt đối nhất của nó và đôi khi cũng gây cảm giác khó chịu. Thơ cũ là tiếng nói của cái ta, thơ mới là tiếng nói của cái tôi. Cái tôi được đặt trong mối quan hệ với thời đại, tâm lí của những thanh niên đương thời, trong phát triển lịch đầu, cái tôi còn bỡ ngỡ thậm chí tội nghiệp. Nhưng ngày một ngày hai nó mất dần vẻ bỡ ngỡ mà dần xuất hiện với cốt cách hiên ngang, nhưng sau đấy cái tôi trở nên thảm hại, bi lụy và mất niềm tin vào hiện thực cuộc sống rơi vào bi kịch cái tôi bơ vơ trước thời cuộc. Hoài Thanh đã khát quát điều ấy bằng những dòng văn hết sức thấm thía và tinh tế, thể hiện phong cách phê bình tinh tế và tài hoa của mình đời chúng ta nằm trong vòng chữ “tôi”, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu nhưng càng đi sâu ta càng lạnh, ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, say đắm bơ vơ cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên khép lại, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn hoàn bơ vơ ta trở về ngẩn ngơ hồn ta cùng Huy Cận. vậy là, Hoài Thanh đã khái quát bi kịch muôn thuở và vĩnh cửu của thi nhân muôn thuở, đó là bi kịch cái tôi cô đơn, bơ vơ. Chính vì thế, người nghệ sĩ luôn khát khao sự tri âm đồng cảm từ độc vậy ta thấy rằng, cách trình bày của Hoài Thanh vừa có tính khái quát cao về sự bế tắc của những cái tôi thơ Mới, đồng thời nhận ra rõ các khuynh hướng thơ đào sâu vào cái tôi, bắt chúng diện mạo, phong cách riêng của từng nhà cách lập luận lô gic, chặt chẽ vừa khoa học vừa nghệ thuật đã giúp cho văn bản hiện lên thật sống động và chân thực. Như thế, đoạn trích của Hoài Thanh là sự khát quát chân thực và cụ thể tinh thần thơ Mới là cái tôi, ngoài ra còn là phát ngôn cho cho bi kịch đương diễn ra trong tam hồn của các thanh niên thơ Mới lúc bấy giờ và cách để họ thể hiện tình cảm của mình đó là gửi tình yêu của mình vào Tiếng Việt-tấm lụa bạch hứng vong hồn của các thế hệ đã đây vừa giới thiệu tới các bạn Phân tích tinh thần thơ mới qua bài Một thời đại trong thi ca. Mong rằng qua bài viết này các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn 11. Để giúp bạn đọc có thêm nhiều tài liệu học tập hơn nữa, mời các bạn cùng tham khảo thêm tài liệu học tập các môn được chúng tôi biên soạn và tổng hợp tại các mục sau Toán 11, tiếng Anh 11, đề thi học kì 1 lớp 11, đề thi học kì 2 lớp 11...Để giúp bạn đọc có thể học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 11, mời các bạn cùng tham khảo thêm các chuyên mụcSoạn bài lớp 11Soạn Văn Lớp 11 ngắn nhấtVăn mẫu lớp 11Phân tích bài Một thời đại trong thi ca trích Thi nhân Việt Nam của Hoài ThanhPhân tích nét chung trong cảnh thiên nhiên của Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mạc TửPhân tích sự thắng lợi của thơ mới trong Một thời đại trong thi ca
November 18, 2020 9 Songs, 40 minutes ℗ 2020 2561012 Records DK
CHẾ DIỄM TRÂM Phong trào Thơ Mới 1932 – 1945 là sự bứt phá ngoạn mục của thơ Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX để giã từ phạm trù văn học trung đại, gia nhập vào quỹ đạo văn học hiện đại, là tiếng nói giải phóng cái tôi cá nhân-cá thể individu, một cái tôi nội cảm, cái tôi sáng tạo xuất phát từ mối bất hoà trước thực tại trên cả hai phương diện nhân sinh và thẩm mỹ. Nói đến cái tôi cá nhân là nói đến sự cô đơn. Biểu hiện thường trực của cô đơn là nỗi buồn. Thơ Mới ngập tràn nỗi buồn. Văn học trung đại có sự điều tiết rất lớn của lý trí cái tôi cộng đồng nên nỗi buồn ít được bộc lộ trực tiếp mà ẩn hiện sau ngôn từ, nấp sau cảnh vật. Ví như nỗi buồn trong thơ Nguyễn Khuyến là nỗi buồn ẩn sau mùa thu làng cảnh Việt Nam của một nhà nho ý thức về thời đại nhưng bất lực. Nỗi buồn ấy thấm sâu trong hình ảnh, trong chữ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được Cá đâu đớp động dưới chân bèo Thu điếu Thơ Mới thể hiện cái buồn rất khác với văn học trung đại. Nó ngang nhiên xuất lộ Hôm nay trời nhẹ lên cao / Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn Xuân Diệu. Nó thường hằng Với tôi tất cả như vô nghĩa / Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau Chế Lan Viên. Nó dai dẳng Tai nương nước giọt mái nhà / Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn Huy Cận… Nỗi buồn chất chứa da diết trong Thơ Mới có nguyên nhân trước hết là do bản chất của nghệ sĩ, nhất là nghệ sĩ lãng mạn. Cơ chế văn chương lãng mạn là cái tôi cô đơn – một trạng thái cảm xúc-tinh thần không được chia sẻ và không chia sẻ được. Cô đơn là điều kiện sáng tạo, là phẩm chất nghệ sĩ, phẩm chất tài năng lớn. Một nguyên nhân khác là các nhà Thơ Mới coi cái buồn, cái đau là một phạm trù mỹ học. Cái buồn đã thấm sâu vào quan niệm thẩm mỹ của các nhà thơ. Huy Cận quan niệm“Cái đẹp bao giờ cũng hơi buồn”, hay như thi sĩ Hồ Dzếnh“Tình mất vui khi đã vẹn câu thề / Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở” Ngập ngừng. Nỗi buồn Thơ Mới vừa nằm trong quan niệm lại vừa là kết quả của sự tác động ngoại cảnh. Cái tôi lý tưởng của Thơ Mới khi va đập thực tế nghiệt ngã của thời đại – xã hội thực dân phong kiến – đã mất phương hướng, mất chỗ bấu víu, đành phổ nỗi buồn vào thơ. Đâu đâu cũng bàng bạc nỗi buồn, từ thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư đến thơ Chế Lan Viên, Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Thâm Tâm… Bởi thế, Hoài Thanh – tác giả Thi nhân Việt Nam – viết “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.” Thơ Mới là thơ của những điệu cảm xúc buồn, song có thể quy về ba dạng thức chính. Khi cái tôi đối diện với toàn cõi nhân gian cả chiều kích không gian và thời gian, cá nhân nhận ra mình chỉ là hạt cát, hạt bụi nhỏ nhoi, nhận ra tình trạng lênh đênh, phù du của phận người thì nảy ra mối sầu nhân thế – nỗi buồn phổ biến của cái tôi lãng mạn, của thơ lãng mạn Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dòng Huy Cận Sầu nhân thế làm nảy sinh tâm lý về sự vô nghĩa của kiếp người. Tư tưởng hư vô nảy sinh, con người thấy chẳng có gì là bền vững, không có gì là nghĩa lý cả Trời hỡi trời hôm nay ta chán hết Những sắc màu hình ảnh của trần gian Chế Lan Viên Khi cái tôi đối diện với thời cuộc môi trường sinh tồn cảm thấy bơ vơ, lạc lõng thì nảy sinh nỗi sầu thời thế, thấy mình như kẻ lạc thời, sinh bất phùng thời, “đầu thai lầm thế kỷ” hoặc thấy thời mình chưa tới hoặc thấy thời mình đi qua mất rồi Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ Một đôi người u uất nỗi chơ vơ … Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh Vũ Hoàng Chương Cái tôi khi đối diện với bản thể chính mình có thể nảy sinh sầu thân thế, nảy sinh tâm lý thấy mình là kẻ thất bại, thậm chí sinh ra đã là kẻ thất bại, chủ yếu trên hai phương diện tình duyên lỡ làng và công danh sự nghiệp dở dang Tết này chưa chắc em về được Em gửi về đây một tấm lòng Em đi dang dở đời sương gió Chị ở vuông tròn phận lãnh cung Nguyễn Bính Thơ Mới cất tiếng đan xen ba mối sầu đồng hành và chuyển hoá nhau thành dàn giao hưởng có ba bè sầu sầu nhân thế – sầu thời thế – sầu thân thế, nổi bật là Xuân Diệu. Ở “nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ Mới” Hoài Thanh, cảm thức về thời gian đã trở thành nỗi ám ảnh. Xuân Diệu ham sống, say sống là thế mà buồn bã, cô đơn. Từ cái buồn tưởng chừng như không duyên không cớ, cái buồn vơ vẩn Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói / Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì Thơ duyên đến cái buồn vì tình yêu đã hết Anh một mình nghe tất cả buổi chiều / Vào chầm chậm ở trong hồn hiu quạnh Tương tư, chiều và cái cô đơn, lạnh lẽo Bốn bề ánh nhạc biển pha lê / Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề / Sương bạc làm thinh, khuya nín thở / Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê Nguyệt cầm…. Cái buồn da diết, ảo não là cái buồn trong Lửa thiêng Huy Cận – man mác cả không gian, tràn lan khắp cảnh vật Sông dài, trời rộng, bến cô liêu Tràng giang, Muôn sao bàng bạc sầu nhân gian Hồn xa… Đó còn là cái buồn thiên cổ xa xăm tự ngàn xưa theo gió thổi về Một chiếc linh hồn nhỏ / Mang mang thiên cổ sầu Ê chề, Phất phơ buồn tự thời xưa thổi về Chiều xưa. Hồn thơ Huy Cận bơ vơ, đơn độc Trời! Ảo não những chiều buồn Hà Nội / Hồn bơ vơ không biết tựa vào đâu Trò chuyện. Nỗi buồn trong thơ Hàn Mặc Tử là hành trình của cái tôi “đau thương” từ nỗi buồn chia lìa ban đầu Gió theo lối gió, mây đường mây / Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay / Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / Có chở trăng về kịp tối nay? Đây thôn Vĩ Dạ; càng về sau, nỗi cô đơn, buồn đau càng quằn quại, tuyệt vọng Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa / Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô / Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy / Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra Say trăng… Tác giả Nguyễn Bính nghiền ngẫm nỗi sầu bi phẫn của một cái tôi lỡ dở trong biến thiên thời cuộc. Nguyễn Bính tự nhận mình là “kiếp con chim lìa đàn”, ra đi “dan díu với kinh thành” nhưng đơn côi, thất vọng giữa phố thị Chẳng đợi mà xuân vẫn cứ sang / Phồn hoa thôi hết mộng huy hoàng / Sớm nay sực tỉnh sầu đô thị / Tôi đã về đây rất vội vàng Sao chẳng về đây?. Cái tôi trôi dạt ấy đành tìm về với “thời trước” trong mộng tưởng nhưng trên con đường về “chân quê” xa lắc, những thôn Đoài, thôn Đông, làng Vân, làng Đặng… cũng mờ mịt xa Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông / Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào? Tương tư… Thế Lữ mang nỗi hận của chúa sơn lâm bị tù hãm “Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt”; Chế Lan Viên có “nỗi buồn thương nhớ tiếc giống dân Hời”; Lưu Trọng Lư “lịm người trong thú đau thương”, vương nỗi buồn của tiếng thu tan ra, loang ra trong không gian; Thâm Tâm xoáy sâu vào nỗi buồn ly biệt ra đi theo tiếng gọi của khát vọng Tống biệt hành … Tất cả góp nhau tạo nên nỗi buồn Thơ Mới, nỗi buồn một thời thơ Việt. Tâm trạng buồn là nét phổ biến ở những nhà thơ lãng mạn 1932 – 1945. Đấy không chỉ là nỗi niềm riêng tư mà đấy còn là cái bệnh thời đại, nói như Xuân Diệu “Nỗi buồn đó vốn là nỗi buồn chung của con người, bọn thi sĩ chúng tôi nhẹ lòng nhẹ dạ nên lĩnh mang giùm tất cả cho nhân gian”. Cái buồn trong Thơ Mới là cái buồn đẹp, thanh khiết và tích cực vì đó là cái buồn của những tâm hồn chưa khô héo, chưa lạnh nhạt, thờ ơ, phó mặc trước cuộc đời chung. Với nỗi sầu buồn ấy, các nhà Thơ Mới gởi đến người đọc thông điệp về sự hòa nhập giữa nỗi buồn, sự cô đơn cá nhân với cuộc đời chung “Chúng tôi cũng bơ vơ, mỗi hồn người là một cõi bơ vơ trong đất trời là một khung bơ vơ; chúng ta đồng một bơ vơ với nhau, vậy thì người cũng bớt bơ vơ một chút” Xuân Diệu. CDT
tôi bơ vơ hoài trở về